Xác suất lỗi bít trung bình được vẽ theo Eh / Nu đối với số người dùng khác nhau K, N = 128, và điều khiển công suất là hoàn hảo (tức là Px=P2=P/i). Ta có thể thấy rằng chất lượng bị bão hòa tại các giá trị cao của Eb /N0 do hạn chế nhiễu. Có thể dễ dàng nhận được giới hạn dưới này của chất lượng từ (2.81) bằng cách cho Eb/Nu><x> và đây là hệ quả cơ bản của MAI.
Ngoài ra, ta cũng có thể thấy rằng độ tăng ích trải N có tác động lớn đến chất lượng. Độ tăng ích trải phổ tăng sẽ làm tăng dung lượng hệ thống. Điều này có thể thấy được từ hình 2.28 ở đó ta vẽ xác suất lỗi bít trung bình theo số người dùng trong hệ thống đối với các giá trị khác nhau của N. Để ý rằng Eb ì N0 = 20 dB trong đồ thị. Nêu yêu cầu một xác suất lỗi cụ thể, tăng N làm tăng dung lượng. Ví dụ, ta hãy giả sử rằng xác suất lỗi yêu cầu là 10’4. Đối với hệ số trải N ~ 16, hệ thống có thể hỗ trợ khoảng K = 4 người dùng. Tuy nhiên, nếu N = 128 thì hệ thống có thẻ hỗ trợ khoảng K = 26 người dùng. Tất nhiên, sự tăng dung lượng này cũng phải trả giá.
Ngoài ra, ta cũng có thể thấy rằng độ tăng ích trải N có tác động lớn đến chất lượng. Độ tăng ích trải phổ tăng sẽ làm tăng dung lượng hệ thống. Điều này có thể thấy được từ hình 2.28 ở đó ta vẽ xác suất lỗi bít trung bình theo số người dùng trong hệ thống đối với các giá trị khác nhau của N. Để ý rằng Eb ì N0 = 20 dB trong đồ thị. Nêu yêu cầu một xác suất lỗi cụ thể, tăng N làm tăng dung lượng. Ví dụ, ta hãy giả sử rằng xác suất lỗi yêu cầu là 10’4. Đối với hệ số trải N ~ 16, hệ thống có thể hỗ trợ khoảng K = 4 người dùng. Tuy nhiên, nếu N = 128 thì hệ thống có thẻ hỗ trợ khoảng K = 26 người dùng. Tất nhiên, sự tăng dung lượng này cũng phải trả giá.
Bằng cách tăng hệ số ữải đối với tốc độ dữ liệu cố định, yêu cầu dải thông tổng cộng cũng tăng lên. Thực vậy, trong ví dụ trước, sự tăng về hệ số trải (và vì vậy tăng dải thông) lên hệ số 8 dẫn đến sự tăng dung lượng chỉ cỡ 6.5. Đây là xu hướng chung trong trường họp CDMA đơn tế bào. Tuy nhiên, có 1 vài yếu tố khác (mà ta chưa xét) nảy sinh trong trường họp đa té bào và làm cho dung lượng tăng hấp dẫn hơn nhiều. Ta sẽ thảo luận điều này chi tiết hơn trong chương 3.
Một kết luận nữa của hệ thống DS-CDMA có thể suy ra từ (2.81) là hiệu ứng gần xa xảy ra bất cứ khi nào các mức công suất thu được của 2 người dùng khác nhau đáng kể. Ví dụ, xét trường họp N – 128, Eh/N0~ 20dB, và K = 30. Nếu tất cả các người dùng đều thu được với mức công suất như nhau (tình huống này gọi là điều khiển công suất hoàn hảo), ta có thể xác định từ (2.81) rằng tất cả người dùng có tỉ lệ lỗi bít trung bình xấp sỉ 2.6e – 4. Tuy nhiên, nếu tín hiệu thu được từ 1 trong 30 người dùng với mức công suất khác với các người dùng khác, thì không chỉ chất lượng của người dùng đó thay đổi mà chất lượng của các người dùng khác cũng thay đổi.
Một kết luận nữa của hệ thống DS-CDMA có thể suy ra từ (2.81) là hiệu ứng gần xa xảy ra bất cứ khi nào các mức công suất thu được của 2 người dùng khác nhau đáng kể. Ví dụ, xét trường họp N – 128, Eh/N0~ 20dB, và K = 30. Nếu tất cả các người dùng đều thu được với mức công suất như nhau (tình huống này gọi là điều khiển công suất hoàn hảo), ta có thể xác định từ (2.81) rằng tất cả người dùng có tỉ lệ lỗi bít trung bình xấp sỉ 2.6e – 4. Tuy nhiên, nếu tín hiệu thu được từ 1 trong 30 người dùng với mức công suất khác với các người dùng khác, thì không chỉ chất lượng của người dùng đó thay đổi mà chất lượng của các người dùng khác cũng thay đổi.
Từ khóa tìm kiếm nhiều:
sóng điện từ