Cân bằng dung lượng – vùng phả sóng

on Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2015
        Đến điểm này, ta mới chỉ quan tâm đến dung lượng hệ thống CDMA. Tuy nhiên, do hệ thống bị hạn chế bởi nhiễu, nên mối quan hệ cơ bản – cụ thể là mối quan hệ nghịch – tồn tại giữa dung lượng và vùng phủ sóng. Tăng số người dùng trong hệ thống làm tăng nhiễu đường lên, và nếu Eb / N0 mục tiêu vẫn được duy / trì, thì điều này sẽ yêu cầu tăng công suất phát của MS. Tuy nhiên, công suất phát của MS bị giới hạn, vì thế vùng phủ sóng bị hẹp lại.
        Có thể thấy rõ mối quan hệ này nếu xét (3.31) và đặt ỉ / p = 0 (tức là bỏ qua nhiễu ngoài tế bào), rồi giải để tìm SNR.
        Hàm này được vẽ ở hình 3.11 với các giá trị Rh= 8kbps, Eba =7dB, B.,. = 1.25MHz. Rõ ràng SNR yêu cầu tăng mạnh với tải hệ thống. Hơn nữa, vì các MS có công suất phát hạn chế, nên các MS ở khoảng cách xa hơn sẽ không thể duy trì SNR yêu cầu khi dung lượng tăng và vì thế sẽ không thể đạt được Eh / /0 mục tiêu. Điều này làm giảm đáng kể vùng phủ sóng hoặc cự li của tế bào.

Cân bằng dung lượng

        Cũng thấy rõ từ hình 3.11, hàm này dường như tiến tới tiệm cận khi số người dùng đạt đến 35. Giá trị này được gọi là dung lượng cực Kpille và là số lượng người dùng cực đại về lí thuyết có thể hỗ trợ được. Giá trị này cũng có thể nhận được bằng cách giải (3.31) đối với K và cho SNR tiến đến vô cùng. Đến điểm này, ta đã phân tích dung lượng trên cơ sở dung lượng giao diện vô tuyến (hay giao diện không gian). Nói cách khác, ta đã khảo sát số tín hiệu đồng thời có thể hỗ trợ được. Tuy nhiên, trong phân tích lưu lượng điển hình, ta quan tâm đến dung lượng Eriang, phản ánh sự kiện là không phải tất cả người dùng đều sử dụng hệ thống 1 cách đồng thời mà truy cập hệ thống 1 cách ngẫu nhiên. Hiệu ứng này đã được thảo luận ở chương 1 và tác động đến tất cả các loại hệ thống tế bào không phụ thuộc kĩ thuật đa truy nhập. Trong hệ thống CDMA tế bào, có 2 giới hạn dung lượng cơ bản: giới hạn dung lượng giao diện vô tuyến và giới hạn tài nguyên phần cứng. Đối với mỗi kênh CDMA đang được thu tại BS, một phần cứng dành riêng cần phải cố để giải điều chế, giải mã, tạo khung v.v. Vì phần cứng dành riêng có chi phí đi kèm, nên giảm thiểu phần cứng ở BS là sự ưu tiên. Tuy nhiên cũng cần phải đảm bảo đủ tài nguyên kênh (thường gọi là phần tủ kênh hay CE) để cung cấp chất lượng dịch vụ yêu cầu (tức là xác suất chặn). Trong khi dung lượng giao diện vô tuyến về thực chất bị hạn chế trên cơ sở từng séc-tơ, thì CE có thể kết hợp trên các séc-tơ, tạo nên hiệu quả trunking ở mức hệ thống. Một nhân tố nữa cần phải xem xét, đó là chuyển giao mềm cũng đòi hỏi CE và vì thế cũng ảnh hưởng đến dung lượng Erlang.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: sóng điện từ