Có thể mở rộng kĩ thuật DS/SS cho nhiều người dùng bằng cách cung cấp các mã trải khác nhau ak(t) cho mỗi người dùng trong hệ thông, trong đó ak(t) là mã trải của người dùng thứ k. Ví dụ của trường hợp 3 người dùng như trên hình 2.5. Giữa hai dãy là n. Với n tùy ý, điều này không thể đảm bảo. Tuy nhiên với n – 0 (tức là các mã đồng bộ) ta cỗ thể bảo đảm điều này. Cụ thể, ta có thể sử dụng các mã Walsh làm dạng sóng trải và đạt được tính trực giao. Các mã Walsh được dựa trên ma trận Haddamard, được hình thành. Các mã Walsh có độ dài 2 sau đó được tạo ra từ các hàng của ma trận Haddamard H2,. Chú ý rằng các hàng của ma trận Haddamard là trực giao, vì vậy có thể sử dụng để tạo 2′ mã ữải trực giao. Độ dài của các mã bị hạn chế bởi lũy thừa của 2. Ngoài ra, tính trực giao chỉ nhận được khi các mã đồng chỉnh chính xác về thời gian (tức là đồng bộ). Các tính chất tương quan chéo và các tính chất tự tương quan của mã là kém khi mất đồng bộ. Nói chung, các mã Walsh phải bổ sung thêm các mã khác để khắc phục thiếu sót này đối với các mục đích đồng bộ. Các tính chất tương quan chéo kém được trình bày trên hình 2.6
Tương quan chéo được vẽ đối với các mã Walsh khác nhau có độ dài 64 Ta có thể thấy rằng chỉ tại độ trễ bằng 0 (tức là n = 0) ta mới nhận được R( [n] = 0 với I và j bất kì. Như vậy các mã Walsh chỉ cổ ích cho phân kênh khi các mã đảm bảo đồng bộ thời gian tại máy thu như trong các kênh quảng bá.
Tương quan chéo được vẽ đối với các mã Walsh khác nhau có độ dài 64 Ta có thể thấy rằng chỉ tại độ trễ bằng 0 (tức là n = 0) ta mới nhận được R( [n] = 0 với I và j bất kì. Như vậy các mã Walsh chỉ cổ ích cho phân kênh khi các mã đảm bảo đồng bộ thời gian tại máy thu như trong các kênh quảng bá.
Các mã Walsh là các ứng cử viên tốt cho các mã trải chỉ cho các hệ thống đồng bộ; chúng rõ ràng là các ứng viên kém đối với các kênh không đồng bộ. Tuy nhiên, có 1 vài họ mã có tính chất tốt không phụ thuộc vào sự đồng bộ, cụ thể là các dãy m [23], các mã Gold [24], và các dãy Kasami [1, 25, 26]. Tất cả 3 mã này đều có tính chất tự tương quan và tương quan chéo tốt và dễ dàng tạo ra bằng sử dụng thanh ghi dịch hồi tiếp tuyến tính (LFSR) [1].
LFSR có độ dài n có thể có 2″ trạng thái khác nhau. Tuy nhiên, nếu LFSR ở trong trạng thái toàn 0 thì nó sẽ không bao giờ rời khỏi trạng thái đó. Vì thế độ dài cực đại có thể của LFSR là 2″ -1 ứng với 2” -1 trạng thái khác 0. Một họ dãy có độ dài 2″ -1 là dãy có độ dài cực đại hay dãy m; gọi như vậy vì các dãy của nó có độ dài cực đại. Các dãy m có nhiều tính chất mong muốn khác nữa. Một trong các tính chất quan trọng là hàm tự tương quan tuần hoàn hai, như sau:
Từ khóa tìm kiếm nhiều:
tần suất